Sau 15 năm tổ chức thực hiện, Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại doanh nhân APEC đã bộc lộ bất cập, hạn chế và phát sinh một số vấn đề…
Bộ Công an đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế mới về trình tự, thủ tục, thẩm quyền cấp và quản lý thẻ đi lại của doanh nhân APEC.
5 YẾU TỐ BẤT CẬP
Ngày 09/9/2005, Việt Nam chính thức tham gia Chương trình thẻ đi lại doanh nhân APEC (thẻ ABTC). Trên cơ sở đó, ngày 28/02/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 45/2006/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế cấp và quản lý thẻ đi lại doanh nhân APEC, được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 54/2015/QĐ-TTg ngày 29/10/2015.
Theo Bộ Công an, sau 15 năm tổ chức thực hiện, bên cạnh những kết quả tích cực thì thời gian qua, quy chế trên đã bộc lộ bất cập, hạn chế và phát sinh một số vấn đề.
Thứ nhất, quy chế hiện chưa có quy định chi tiết về thủ tục hành chính tiếp nhận, xử lý tại UBND cấp tỉnh, dẫn đến việc UBND cấp tỉnh không có cơ sở pháp lý để yêu cầu các doanh nghiệp chứng minh tư cách pháp nhân cũng như không có căn cứ đánh giá về năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng hợp tác của các doanh nghiệp.
Do không có một quy định chung nên mỗi tỉnh, thành phố lại áp dụng tiêu chí riêng để xem xét cho phép doanh nhân được sử dụng thẻ. Điều này dẫn đến việc thực hiện không đồng bộ giữa các địa phương.
Thứ hai, quy chế chưa quy định trách nhiệm, nghĩa vụ quản lý thẻ ABTC của các doanh nghiệp và việc sử dụng thẻ ABTC của các doanh nhân được cấp, cũng như chế độ báo cáo tình hình quản lý và sử dụng thẻ theo định kỳ.
Việc phối hợp trao đổi thông tin về cấp thẻ ABTC cho doanh nhân giữa Bộ Công an với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa được kết nối thường xuyên, nên địa phương không nắm được những trường hợp UBND cấp văn bản cho phép doanh nhân sử dụng thẻ nhưng không được Bộ Công an cấp thẻ. Do đó, cần phải có quy định về việc này.
Thứ ba, theo quy định hiện hành, cấp thẩm quyền xét, cho phép sử dụng thẻ ABTC gồm có Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Chủ tịch Hội đồng thành viên các Tổng Công ty do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.
Tuy nhiên, thực tế giải quyết hồ sơ có nhiều doanh nhân thuộc các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức phi chính phủ như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)… đề nghị cấp thẻ ABTC. Quy chế hiện chưa quy định cấp thẩm quyền nào được xét, cho phép sử dụng thẻ đối với doanh nhân thuộc các tổ chức này nên cần phải có quy định cụ thể để thực hiện.
Thứ tư, ngày 20/11/2020, tại Tuần lễ cấp cao APEC, Thủ tướng Úc đã chính thức thông báo triển khai thẻ ABTC điện tử. Thẻ ABTC điện tử là phiên bản kỹ thuật số của thẻ ABTC cứng, cho phép doanh nhân xuất trình thẻ ABTC qua “ứng dụng” trên thiết bị thông minh. Mỗi nền kinh tế thành viên APEC sẽ quyết định lộ trình chuyển đổi từ thẻ ABTC cứng sang sử dụng thẻ ABTC điện tử cho các doanh nhân của mình. Tính đến nay đã có 10 nước thành viên phát hành thẻ ABTC điện tử.
Theo Quy chế hiện nay thì thẻ ABTC đang được hiểu là một loại giấy tờ cấp cho doanh nhân (thẻ ABTC cứng). Do đó, cần thiết phải sửa đổi Quy chế để có cơ sở pháp lý cho việc triển khai cấp thẻ ABTC điện tử cho doanh nhân Việt Nam và kiểm soát đối với doanh nhân nước ngoài sử dụng hình thức thẻ này nhập cảnh.
Thứ năm, để thực hiện Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 10695/QĐ-BCA ngày 25/12/2021 phê duyệt danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 cung cấp trên cổng dịch vụ công Bộ Công an năm 2022, theo đó một số thủ tục cấp thẻ ABTC của doanh nhân Việt Nam được nâng lên cấp độ 4.
Và để có cơ sở pháp lý triển khai thực hiện Quyết định này cần phải sửa đổi Quy chế về việc cấp và quản lý thẻ đi lại doanh nhân APEC.
LOẠT QUY ĐỊNH MỚI
Một điểm mới đó là, đối với một số trường hợp liên quan các tổ chức chính trị – xã hội hay VCCI có nhu cầu sử dụng thẻ ABTC phải được Lãnh đạo các tổ chức chính trị – xã hội hoặc Chủ tịch VCCI cho phép sử dụng thẻ ABTC.
Cuối cùng, trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Công an là người quyết định xét, cấp thẻ ABTC cho những người thuộc các đối tượng khác phù hợp, có nhu cầu.
Ngoài ra, dự thảo cũng quy định, thẻ ABTC có giá trị sử dụng trong 05 năm, kể từ ngày cấp và không được gia hạn. Khi thẻ ABTC hết thời hạn sử dụng, nếu người được cấp thẻ vẫn có nhu cầu đi lại trong khối APEC, thì làm thủ tục đề nghị cấp thẻ mới. Thẻ ABTC có giá trị nhập cảnh, xuất cảnh vào các nước và vùng lãnh thổ thành viên tham gia Chương trình thẻ ABTC có tên trên thẻ khi người mang thẻ xuất trình kèm theo hộ chiếu hợp lệ.
Mỗi lần nhập cảnh, người mang thẻ ABTC được các nước và vùng lãnh thổ thành viên cấp chứng nhận tạm trú theo thời hạn quy định của các nước hoặc vùng lãnh thổ đó.
Hiện nay, APEC có 21 nền kinh tế tham gia bao gồm: Mỹ, Canada, Úc, Chi Lê, Trung Quốc, Brunei, Hồng Kông, Đài Loan, Peru, Papua New Guinea, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Mexico, Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện có 19 nước là tham gia chương trình thẻ APEC toàn diện, còn lại 2 nước là Mỹ và Canada tham gia chưa toàn diện (đang trong thời kỳ quá độ – transitional members).
Thẻ ABTC đã bị hủy giá trị sử dụng sẽ không được khôi phục. Nếu doanh nhân Việt Nam có nhu cầu tiếp tục sử dụng thẻ ABTC thì phải làm thủ tục đề nghị cấp thẻ mới.
Doanh nhân Việt Nam và doanh nhân nước ngoài mang thẻ ABTC có trách nhiệm xuất trình thẻ ABTC và hộ chiếu cho người làm nhiệm vụ kiểm soát xuất nhập cảnh khi xuất cảnh, nhập cảnh tại sân bay của các nền kinh tế thành viên.
Đáng chú ý, doanh nhân nước ngoài sử dụng thẻ ABTC nhập cảnh Việt Nam được đơn vị kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu quốc tế cấp chứng nhận tạm trú 90 ngày cho mỗi lần nhập cảnh và trước thời hạn của hộ chiếu 1 tháng.
Trường hợp thẻ ABTC còn thời hạn dưới 90 ngày thì cấp chứng nhận tạm trú bằng thời hạn của thẻ.
Trường hợp doanh nhân bị mất hộ chiếu và được cấp hộ chiếu mới thì Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an cấp chứng nhận tạm trú bằng thời hạn chứng nhận tạm trú được cấp tại cửa khẩu hoặc cấp chứng nhận tạm trú để xuất cảnh trong trường hợp đã hết thời hạn tạm trú.